27/7/14

Giới Thiệu Học Thuyết Nhân Quyền




Nguyễn Quang

Giới Thiệu

Học Thuyết Nhân Quyền

cho Việt Nam và các dân tộc

cùng cảnh ngộ!



Đại Học Nhân Quyền Việt Nam

*******

Học Thuyết Nhân Quyền
cho Việt Nam và các dân tộc cùng cảnh ngộ!

Nguyễn Quang
Lời phi lộ
Vật lý góp phần rất lớn nếu không muốn nói là nền tảng để xây dựng nên một học thuyết, nhưng những chân lý cổ xưa – old verities này trên đất nước Việt Nam vẫn còn khiêm tốn trong sự đóng góp cùng bao tiến hóa của nhân loại.
Người dân quê xứ tôi nhìn trăng là trăng và mường tượng đó là Chị Hằng Nga cùng chú Cuội, song khoa vật lý thiên thể nó là một hành tinh trong hệ mặt trời đến lỗ đen…Vũ trụ luận về cái hữu hạn đến vô hạn! Điều này để nói lên rằng học thuyết nhân quyền với ba nghìn trang hãy còn nhiều giới hạn, thực tế là như vậy, nhưng nơi đây trong một xã hội ngụy tín, vong thân được tổng hợp lại thành hệ thống với phương cách giải quyết gồm:
Tiền đề: Sự du nhập các nền dân chủ chính là nguyên nhân tạo nên chiến tranh Việt Nam cùng bao hệ lụy như ngày nay do thứ dân chủ mỵ dân, trá hình…mà đến!
Phản đề: Thực trạng xã hội Việt Nam dưới chiêu bài dân chủ nhân dân – dân chủ xã hội chủ nghĩa…những trò dân chủ giả hiệu, ngụy tín được trình bày qua các tuyển tập:
-          Hành Trình Nhân Quyền
-          Hành Lang Thiên Đường
-          Bạo Chúa Quê Tôi
-          Tham Nhũng và Nhân Quyền Tại Việt Nam – Quyển I
-          Tham Nhũng và Nhân Quyền Tại Việt Nam – Quyển II
-          Tôi Có Giấc Mơ Việt Nam Tự Do
-          Thành Phố Mộng Mơ
-          Những Kẻ Lạ lên làm lãnh tụ ở Việt Nam
-          Biển Đỏ Việt Nam
-          Địa Ngục Có Thật
Tổng Đề: Kết luận
- Từ sự du nhập những trào lưu phản dân chủ dẫn đến thực trạng Việt Nam tha hóa, cá nhân đánh mất chính mình và trên phạm vi quốc gia mất nước!
- Phương cách giải quyết với Đường Lối Mới Nhân Quyền qua các tác phẩm:
           * Hành Trình Tự Do
           * Hành Trình Dân Chủ.
***


I
Hành Trình Nhân Quyền

Chương 1
Dân tộc Việt Nam
trong Thế giới ngày nay
Thế giới được trình bày ở đây là thế giới của con người, dân tộc ở đây là Việt Nam với hơn sáu mươi dân tộc anh em, trong toàn thể gia đình nhân loại. Gia đình này có cùng môi trường, lịch sử, địa lý… với những dấu ấn vinh quang tủi nhục. Nó được hình thành, phát triển có lúc rơi vào ách nô lệ cả ngàn năm, rồi trăm năm, nhưng nhờ tinh thần đoàn kết biết đùm bọc yêu thương đã bẻ gãy bao uy quyền của nước lớn để tìm lại chính mình và hóa thân cho phù hợp với thân phận con người ngày càng đến viên mãn.
Không có cách nào diễn tả được hết mối liên đới giữa các bộ tộc trong đại gia đình, sự tôn trọng và lòng quí mến nhau, thường xuyên thiết lập các mối đối thoại ấy chính là sợi dây bền vững, ánh sáng soi đường cho dân tộc này tồn tại. Và dĩ nhiên con người đó phải là con người toàn diện cả về thể xác và tinh thần, tình cảm và lương tri, trí năng và ý chí - sẽ là yếu tính của một đường lối mới trong khả năng giới hạn của tri thức con người.
Tôi có thể hy vọng những gì, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng hiểu biết của tôi đến đâu. Như vậy chúng ta phải theo dõi tìm hiểu tường tận những dấu chỉ của thời đại và giải thích dưới ánh sáng của khoa học. Sự nhận biết sẽ giúp chúng ta không còn sợ hãi trong thế giới chúng ta đang sống với những chờ đợi mong ước mà thường là ít hanh thông nhưng đầy những bi thảm của nó.
Con người do óc thông minh, và nỗ lực sáng tạo đang trở lại ảnh hưởng trên chính con người mình - Tất cả đều lưu chảy – Pantarei, như quan điểm của triết gia cổ Hy lạp Héraclitos qua câu nói thời danh: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”. Như vậy chúng ta có thể nói đến sự biến đổi đích thực về mặt xã hội cũng như văn hoá qua truyền thông giáo dục như một dòng chảy không ngừng. Nhưng con người vẫn rơi vào khủng hoảng triền miên, vì trí năng của con người cũng chỉ trong giới hạn, như càng tìm kiếm quyền lực không phải lúc nào nó cũng phục tùng mình; càng đi sâu vào nội tâm con người càng hoang mang với chính mình; càng tìm hiểu về luật lệ xã hội khác nhau lại càng do dự không dám định đoạt con đường nên mới có thuật ngữ nào như định hướng chẳng hạn, thật sự các lý thuyết gia có tư tưởng tiết ra từ tuyến hạch ấy cũng không biết rõ nó sẽ dẫn dân đi về đâu.
Chưa bao giờ dân tộc này có số ngoại tệ từ người Việt Nam ở hải ngoại gởi về nhiều như hiện nay và theo báo cáo của nhà cầm quyền mức tăng trưởng rất cao. Thế nhưng trên đất nước này nhất là ở các vùng sâu, vùng cao vẫn nhiều người thiếu thốn, đói ăn, rét không áo mặc… Sống trong thời đại thông tin nhưng hầu hết người dân đều mù vi tính kể cả gần hết cán bộ nhà nước, các giáo sư, giáo viên cũng chưa biết sử dụng.
Chưa bao giờ con người ý thức mãnh liệt về sự tự do như ngày nay, nhưng trên đất nước này lại còn tồn tại một hình thức nô lệ bạo tàn đời mới không chỉ làm chậm sự phát triển của xã hội mà gây ra không biết bao nhiêu hậu quả tâm lý xã hội và tâm thần các công dân. Ở đây không còn là ý thức hệ nữa mà là sự cố bám víu của một tập đoàn thống trị quyết giữ quyền lực để hối lộ tham ô làm giàu cá nhân bất chính, nó khiến cái xã hội công dân đó hụt hẵng về tinh thần đưa xã hội đến khủng hoảng trầm trọng về đạo đức tha hoá vô phương cứu chữa: ai chống tham nhũng là chống ta theo nguyên văn “chúng chống tham nhũng là chống đảng”.
Chưa bao giờ con người tự nhận mình là cha kẻ cướp, nhưng đánh dấu một bước tha hoá vong thân những người cộng sản đã mặc nhiên nhận mình là một đảng tham nhũng: ai đánh chết cái xấu trong các đồng chí của ta chính là giết ta. Chính nhờ sự phát triển của kỹ thuật, con đẻ của khoa học nền tảng, tinh thần khoa học này đang tạo ra một nền văn hoá và những cách tư duy khác trước đây. Kỹ thuật đã làm thay đổi toàn bộ khuôn mặt địa cầu cả về tốt và xấu như sự nóng ấm dần lên, mực nước biển dâng cao do băng tan dần ở hai cực, hoặc sự thay đổi sâu sắc mà về các mặt trên bình diện đạo đức con người phải nghĩ đến khi chúng ta thực hiện được sự nhân bản các phôi của con người. Đúng là nhân loại ngày càng lưu tâm hơn để tìm cách tiên liệu và giải quyết những vấn đề dân số, môi trường, những giá trị tinh thần mang tính phổ quát mà nhân loại cùng công nhận. Chính dòng lịch sử đang biến chuyển quá nhanh đến nỗi từng cá nhân, mỗi dân tộc riêng rẽ khó lòng tách ra khỏi hệ thống toàn cầu. Lịch sử hầu như sẽ không còn viết dưới dạng tách biệt giữa các dân tộc mà nó sẽ là một nhãn quan tổng hợp mới, thống quan hơn.
Tổ chức xã hội theo khuôn mẫu kỹ nghệ như siêu thị, thuốc men được bào chế trong điều kiện vi dẫn lực, chẩn đoán điều trị bệnh nhờ các phát kiến về gene… đã nhanh chóng đưa các quốc gia đến thịnh vượng kinh tế và thay đổi tận gốc rễ những quan niệm, những hoàn cảnh đời sống xã hội đã có từ lâu đời. Văn minh thị thành từ các thành phố lớn hiện đại trên thế giới lan toả đến mọi ngõ ngách ở miền quê qua phương tiện truyền thông hiện đại giúp con người nhận biết các biến cố mau lẹ với những suy tư cảm nghĩ có sự liên đới với nhau.
Chính việc “toàn cầu hoá” mang lại cho con người những mối liên hệ mới, song những mối liên hệ mới đó không phải lúc nào cũng giúp nhân loại sống trong bộ mặt con người, thăng hoa nhân tính trong mỗi cá nhân, hay về mặt nhà nước biết tôn trọng những quyền cơ bản của con người. Đặc biệt các nước tách biệt trong lý luận mỗi dân tộc có cách dân chủ riêng của nước mình càng thêm ngụy biện ngày càng xa rời với nền dân chủ phổ quát, nhất là vẫn còn tồn tại các quốc gia cố bám vào những học thuyết lỗi thời ngày càng đưa mình đến chủ nghĩa nhà nước toàn trị đáng nguyền rủa.
Con người vừa là nguyên nhân vừa là nạn nhân, sự thay đổi não trạng và cơ cấu khiến con người đặt lại vấn đề những giá trị đang có, thường theo sự phát triển tự nhiên giới trẻ, nhất là trí thức trẻ luôn tiên phong trong sự lật đổ quá khứ lỗi thời, thế nhưng thanh niên VN trong thời đại hiện nay hầu như đã bị tê liệt khả năng khai phá, sáng tạo, vì ngay từ nhỏ đã bị nhồi sọ cuồng tín trong mê mờ, chỉ còn là thân con ngựa thồ luôn bị bịt kín hai mắt từ bẩm sinh.
Sự toàn cầu hoá đưa đến sự biến đổi nhanh chóng về mặt kỹ thuật trên toàn thế giới nhưng vẫn không sớm làm thay đổi được những khác biệt vốn đã có từ truyền thống như tôn giáo, sùng bái các học thuyết lỗi thời… đã tạo nên sự khác biệt đến mâu thuẩn sâu sắc trong thế giới ngày nay. Chính nơi mỗi cá nhân sự thiếu quân bình giữa thực tế đang diễn ra với mớ tư duy lý thuyết lỗi thời đã khiến chủ thể không còn tự chủ được chính mình, đã đưa tha nhân đến ngụy tín, vong thân với chính: cái tôi tự thân và cái tôi xã hội trong tôi hoàn toàn tách biệt.
Các gia đình VN từ khi có chế độ CS cũng dần thay đổi sâu sắc, từ quan hệ tình dục với quan điểm duy vật, việc vụng trộm lấy vợ chồng người trở nên phổ biến bình thường với các đảng viên cộng sản, dù không nói lên nhưng người nào cũng hiểu ra “đứa nào có cái khéo lanh hơn” thì được hưởng, nếu lộ liễu quá thì mang ra kiểm điểm là cùng. Ngày nay với phương tiện truyền thông hiện đại, nhất là qua internet, lớp con trẻ của những người duy vật tha hoá từ gene này càng xem chuyện ái ân như là một trò chơi, hậu quả việc hút nạo thai, phá thai trong giới trẻ trở nên quá nguy hiểm cho việc sinh nở đối với thế hệ mai sau. Bọn chúng nhai thuốc ngừa thai như nhai kẹo cao su. Gia đình tế bào của xã hội quả là một ý niệm đã tàn lụi trong những hoang tưởng về một thế giới đại đồng thiếu vắng cây gậy dẫn đường về đạo đức.
Từ gia đình mang mầm mống mâu thuẫn cho xã hội, nên cũng từ đó mà phát sinh những nghi kỵ, thù địch, xung đột tai họa mà chính con người thay vì tự cứu mình đã là nguyên nhân và là nạn nhân.

Chương 2
Những khát vọng tự do, dân chủ phổ quát
của người Việt Nam trong cộng đồng nhân loại.
Dù có những trở lực từ các quốc gia cá biệt nhưng cộng đồng nhân loại vẫn không ngừng chinh phục thiên nhiên như thám hiểm ngoài vũ trụ, mà còn phải hướng tới sự thiết lập một trật tự chính trị, xã hội, kinh tế để phục vụ con người ngày càng đắc lực hơn nhằm giúp mỗi cá nhân, các dân tộc thăng hoa phẩm cách riêng của mình.
Các nước đang phát triển cũng như các quốc gia kém phát triển đều mong muốn dự phần vào sự tiến triển chung của văn minh nhân loại ngày nay, không những trên phạm vi chính trị mà cả trong lãnh vực kinh tế nữa. Họ thật sự mong muốn tự do chu toàn chính mình và góp phần cùng cộng đồng nhân loại. Các dân tộc bị hoạn nạn, đói khổ đã kêu gọi các dân tộc phồn thịnh hơn và tiếng kêu đã được đáp lại. Những công nhân, nông dân cũng muốn làm việc không chỉ để mưu cầu cho cuộc sống nhưng còn để phát huy tài năng, nhất là họ mong muốn tham gia vào tổ chức đời sống kinh tế, xã hội chính trị và văn hoá. Điều đó nói lên khát vọng sâu xa của cá nhân cũng như của các dân tộc đều khao khát một cuộc sống đầy đủ và tự do xứng đáng với con người.
Trên quan niệm “dương trung hữu âm, âm trung hữu dương”, quả là thế giới ngày nay vừa bền vững vừa mỏng manh, vừa mạnh vừa yếu, có khả năng làm điều thiện nhất cũng như ác nhất. Trước mặt con nhân sư với câu trả lời cho con đường dẫn tới tự do hay phi nhân bản, tiến bộ hay thoái hoá, phát triển hay chậm tiến, “mọi người là anh em tôi” hay mãi gieo hận thù.
Những vấn nạn sâu xa của người Việt Nam trong hiện tại. Những người yêu nước VN có mối dày vò từ đáy lòng mình, ngay chính những người VN yêu nước theo CS trước đây, nay còn chút lương tri đều ý thức rằng họ đã bị giới hạn nếu không muốn nói là bị trói chặt bởi thứ chủ thuyết giáo điều mang nhiều mâu thuẩn, những khát vọng vô biên của họ trở thành viễn tưởng, sự mời gọi tìm đến một cuộc sống cao cả hơn trở thành xa vời, rất may họ còn chút niềm tin: rồi thời thế sẽ thay đổi. Vì căn để học thuyết họ từng đeo đuổi là động và chính cái động đã biến những kẻ cố bám víu vào học thuyết ấy trở nên sớm lỗi thời trong một thế giới đầy sự phủ định của phủ định, sự biến dịch với tính động mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đã đến lúc những người cộng sản hay không thích thứ chủ nghĩa ấy đều đến sự chọn lựa cho dân tộc mình trong đó có mỗi cá nhân: thay vì sự yếu đuối sợ hãi nhiều khi con người làm điều mình không muốn, cũng như không làm được điều mình muốn làm. Những kẻ bội nhiễm chủ nghĩa cộng sản không nhận ra thảm cảnh phân hoá của dân tộc, trước mắt họ bao giờ cũng là thiên đường ảo hay ít ra cũng hữu dụng khi đó là thứ chủ nghĩa sắt máu trong cách cai trị dân của phần lớn các lãnh tụ Á đông hay thường dùng, phải có con roi sắt để trị những con ngựa bất kham. Ngoài ra cuộc sống quá nghèo nàn, đói rách khiến họ không còn biết nghĩ đến thứ gì khác ngoài cái ăn, trong khi đó còn có những người ở miền Nam vì cuộc sống quá cơ cực khi cộng sản cầm quyền nay kinh tế khá hơn một tí nhờ tiền người thân ở nước ngoài gởi về đã cảm thấy yên tâm ăn ngủ dù đó là “mèo trắng hay mèo đen…” miễn là có chú chuột để ăn chơi, ngủ nghỉ là tốt rồi. Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu trường đảng, trường bồi dưỡng chính trị trung cao cấp, nhưng vẫn không đẻ ra được một lý thuyết gia ra hồn nào để dẫn đường xứng đáng hậu duệ của Mác... chỉ xô đẩy các công dân thành những quái thai tâm thần. Điều này nói lên thứ học thuyết ấy đã không mở ra cho các dân tộc sự dẫn đường mà chỉ tạo ra các khuôn mẫu cùng định kiến, chính nó phủ định ngay những hạt mầm sáng tạo từ trứng nước với các tập đoàn thống trị dã tâm man rợ.
Bên cạnh đó còn có những người chỉ trông vào nỗ lực của nhân loại nói chung rồi sẽ mang lại tự do, dân chủ cho Việt Nam, ngoài ra cũng không thiếu những người thất vọng trước bạo tàn đang đồng hành cùng sự bó tay bất lực của LHQ trước các chế độ độc tài toàn trị, áp bức chà đạp nhân phẩm chính người dân nước họ, sự lên tiếng của các tổ chức quốc tế này không đủ vơi đi nước mắt của dân lành đang bị cai trị dưới trướng bọn quân phiệt tham nhũng, hối lộ, chiếm đoạt tài sản, hãm hiếp phụ nữ trẻ em… Những người bị áp bức, họ cần một LHQ hành động chứ không phải bằng nghị quyết.
Chính vì lẽ đó mà CSVN vẫn còn tạm thời tồn tại, tuy nhiên trước sự tiến hoá hiện nay, nhiều người kể cả những người trong chế độ CSVN đều nhận thức các vấn đề một cách căn để như: Dân tộc này sẽ về đâu? Miếng ăn cái uống là gì? Kinh tế thị trường thực chất sẽ ra làm sao, khi VN trở thành sân sau, một bãi rác khổng lồ của Trung Quốc? Đói ăn, khát vọng, cái chết… Tại sao vô thần nhưng trước cái chết ông đảng viên nào cũng mời Thầy Chùa đến tụng kinh và thậm chí đưa ảnh về chùa để có người nhan khói? Con người có thể giúp được gì cho nhau hay vì chút miếng đỉnh chung, tham vọng cá nhân mà nhân danh đủ thứ này nọ để giết anh em mình. Vậy bên sau cuộc sống này có cái gì hay chết là hết.
Dân tộc này đã từng chết đi trong nô lệ dưới ách bạo tàn và đã sống lại khải hoàn trong tự do, nên là người dân Việt ai cũng ý thức và quý trọng tự do, từ truyền thống tinh thần đó mà họ đã bị thứ học thuyết cộng sản mê hoặc hứa hẹn một sự giải phóng khỏi nô lệ và có được nhân vị tự do, họ đã bị đánh lừa khiến dân tộc đến chỗ chết chóc lầm than phân hoá như hiện nay. Nhưng tinh thần truyền thống đó luôn là ánh sáng và sức mạnh để mọi người Việt đoàn kết vượt qua mọi tối tăm. Tinh thần này xác nhận rằng qua mọi thay đổi, dù có nhiều đổi thay nhưng nền tảng của nó yếu tố tự nội vẫn là tự do từ bên trong như thảo kính cha mẹ, anh em đùm bọc yêu thương nhau, đoàn kết một lòng quyết giữ mãnh đất cha ông mình để lại. Nó đã có từ hôm qua, hôm nay và mãi mãi.

Chương 3
Dân tộc Việt Nam và phẩm giá con người.
Dù đứng trên quan điểm nào, dường như nhân loại đồng ý rằng mọi tạo vật trên địa cầu phải được hướng về con người như là trung tâm và cùng đích.
Vậy con người là gì? Các triết gia đưa ra nhiều quan niệm, nhiều khi khác biệt đến trái ngược nhau khiến con người hoài nghi và lo lắng, hy vọng đến tuyệt vọng…Riêng thân phận đích thực của con người VN được giải trình qua thăng trầm của lịch sử dân tộc mình có thể xác nhận được phẩm giá, xứng đáng của con người.
Từ khởi thủy trên con đường dựng nước, Tổ tiên người Việt đã xây dựng nên một truyền thuyết có tính xã hội, sự liên kết giữa Sơn tinh và Thuỷ tinh đã tạo nên một thứ cộng đoàn đầu tiên giữa người và người. Và quả là những ngày đầu tiên người Việt đã có ngay được những việc làm tốt đẹp.
Phẩm giá trí tuệ: qua các thời đại nhờ chuyên cần trau dồi tài năng của mình, người Việt có tiến bộ văn minh hơn như trên bình diện khoa bảng các luận án tiến sỹ thuần tuý trên bình diện thơ văn, nay hoà nhập với thế giới và bắt đầu có những luận án khoa học có giá trị mang tính nhân văn cũng như lý thuyết thuần tuý. Thực vậy trên nền tảng khoa học, người Việt chưa có phát minh nào góp phần cùng đồng loại đạt đến những bước tiến vượt bực trong khoa học thực nghiệm, kỹ thuật, nghệ thuật… như ngày nay. Nhưng có một yếu tính trở thành thuộc tính thiết yếu đó là tính thích nghi tuyệt vời của người Việt. Hầu như tất cả các tôn giáo, học thuyết đều du nhập từ ngoài vào Việt Nam và đã sớm sinh hoa kết trái do tính hiếu học của dân tộc này với căn để từ cái chân với triết lý sống trên kính Trời, dưới yêu người và biết trọng cái Tâm trong chính mỗi con người.
Trong thời đại ngày nay, con người đã đạt được những thành công phi thường, nhất là trong lãnh vực chế ngự được thế giới tự nhiên, những người Việt định cư ở các nước có nền công nghiệp phát triển cũng có dịp phát triển tài năng không kém công dân các nước đạt Nobel nhiều nhất. Hơn thế nữa người Việt còn đi xa hơn với ước nguyện tìm kiếm trong môi trường toàn cầu hoá với một thế giới bao dung hơn.
Cuối cùng bản chất tri thức con người toàn diện, người Việt luôn ý thức rằng nó phải được kiện toàn nhờ tri thức chung của nhân loại, người Việt đã chưa có những phát kiến cho nhân loại nhưng luôn ý thức trong thích nghi bền vững vì “vốn nhân loại khôn hơn mỗi người”. Sự nhận thức đúng đắn về khả năng của mình đã giúp dân tộc này cùng với thời cơ đã vượt qua bao ghềnh thác trong cứu cánh hướng đến cái thiện cái chân mà ngay từ buổi sơ khai lập nước cha ông đã khắc sâu trong mỗi người dân Việt.
Phẩm giá lương tâm: con người khám phá tận đáy lòng mình thứ lề luật mà chính con người không đặt ra cho mình, nhưng vẫn phải tuân theo gọi là tiếng nói của lương tâm. Theo Kant đó là các luật tự thân. Tiếng nói ấy ăn sâu vào dân gian vào lòng người dân Việt cũng như các dân tộc: nó kêu gọi con người hãy làm lành lánh dữ. Tuân theo lề luật ấy chính là phẩm giá của con người và chính con người cũng sẽ bị xét xử theo lề luật tự thân ấy nữa. Lương tâm làm cho con người biết tự trọng và tôn trọng tha nhân, chính nó là nền tảng luân lý được đặt ra trong quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong một thế giới liên đới mang tính toàn thể nhân loại.
Thật vậy một khi lương tâm ngay thẳng thì những cá nhân và cộng đoàn càng tránh được độc đoán, mù quáng và càng nỗ lực tuân thủ những tiêu chuẩn khách quan của các giá trị đạo đức phổ quát. Hiện tại lương tri của những người CSVN đã rơi vào lầm lạc với thứ chủ thuyết Mác Lê lỗi thời, nhưng họ vẫn chưa chịu từ bỏ, dù đã có Nghị quyết của Nghị Viện Âu châu lên án các chế độ tàn bạo này. Chính thói quen vấy máu như bằng mọi cách dù phải nói láo để đạt mục đích đã biến lương tâm của những người CSVN trở nên mù quáng, sự mê mờ dưới thời các vua triều Nguyễn đã cho trí thức nói láo khi có người tường trình rằng họ đã thấy chiếc đèn chúc xuống và các vua trong ngu muội bảo rằng làm gì mà có loại đèn chúc xuống như thế… dầu sẽ bị đổ ra ngoài hết… cũng như giờ đây những người CSVN lý luận nếu cho dân chủ, đa nguyên sẽ hỗn loạn hết…Nhưng không phải vì thế mà họ mất hết phẩm cách, những người CSVN vẫn còn các gene lương tâm di truyền của giống nòi này và mọi sự sẽ trở lại tốt đẹp nếu họ biết cùng dân tộc bước đi trên một khởi đầu mới.
Sự cao cả của tự do: nhưng con người chỉ có thể quay về với sự thiện một cách tự do. Tự do không phải tôi muốn làm gì thì làm nhưng là tôi hành xử những gì không phương hại đến người khác. Hiện nay tự do của những người cộng sản là họ thích làm những gì họ muốn nhiều hơn về điều ác và quả thật mảnh đất của sự tối tăm rất thích hợp với họ như tham nhũng, hối lộ, nhân danh chức quyền tước đoạt tài sản công dân… Tự do đích thực là dấu chỉ cao cả nhất của con người: tôi có quyền định liệu để tự mình tiến tới sự hoàn thiện nơi mỗi cá nhân một cách trọn vẹn và hạnh phúc. Tự do từ bên trong chứ không phải do bản năng mù quáng hay cưỡng chế hoàn toàn từ bên ngoài. Người dân Việt đã theo đuổi đến cùng trong suốt lịch sử của dân tộc mình để có sự tự do chọn lựa cái thiện và một cách khôn ngoan thực sự tạo cho mình những phương tiện thích ứng. Mỗi người Việt Nam, nhất là những nhà lãnh đạo sẽ phải trả lời về đời sống của mình, trước hết và có lẽ là quan trọng hơn cả : đó là triết lý chính mình với mình, một nhà lãnh đạo giỏi bá đạo là người bị dân phỉ nhổ nhiều nhất nhưng tồn tại có hơi lâu dài, hay làm một lãnh tụ dù phải ra đi khi cần thiết như đúng nhiệm kỳ qui định, nhưng người dân lúc nào cũng mến trọng? Đó là sự cao cả của lương tâm khiến dân tộc này luôn đứng lên và giành lấy lại tự do mà nhiều khi tưởng chừng không gượng dậy nỗi trước bạo tàn.
Bạo tàn có hệ thống: bản chất của những kẻ bạo tàn là chúng nghĩ ta sẽ không bao giờ chết và sự giết hại người khác cũng là nhằm duy trì sự sống mãi của ta và con cháu ta. Thế nhưng các bạo chúa như Tần Thuỷ Hoàng, Hitler, Staline, Mao… đều ra người thiên cổ! Con người nạn nhân của họ bị đau khổ, thân xác bị hành hạ… mà hơn thế nữa dù không làm gì chống đối lại nhưng người dân vẫn trong nơm nớp lo âu bị tiêu diệt, sự ám ảnh nơi mỗi cá nhân vì thuộc tính căn để nơi mỗi con người không bao giờ mất đi đó là yếu tính trí tuệ và tự do mà bạo quyền nào cũng nơm nớp sợ hãi nó.
Trước bao hy sinh mất mát nhưng người Việt yêu nước luôn mang theo mình niềm tin: sự băng hoại của tập đoàn nào rồi cũng bị đánh bại khi lòng nhân ái và sự đoàn kết vẫn còn. Chính niềm tin với những lý chứng vững chắc đó là lời giải đáp cho bất cứ ai còn khắc khoải lo âu về số phận của dân tộc này. Phẩm giá cao quý của con người là được mời gọi cùng nhau đối thoại thể hiện qua huyền thoại trăm cái trứng sinh ra trăm người con ngay từ buổi ban đầu hình thành dân tộc. Quả thực những người không nghe theo tiếng nói của lương tâm, cố tình từ chối yếu tố đối thoại, chắc chắn họ phải chịu trách nhiệm trong việc đoàn kết dân tộc, họ đang che dấu bộ mặt thật của mình: khuôn mặt thật của họ là lừa dối chính công nhân và nông dân như họ từng nêu lên như một chiêu bài.
Những người nông dân chân chất đã bị lừa dối trong suốt nửa thế kỷ qua, họ đã bị bần cùng hoá đến tận cùng khi con cái của họ phải đi đầu làm bia đỡ đạn trong chiến tranh và nay hoà bình tài sản đất đai bị trưng thu, chiếm đoạt của các quan tham cộng sản. Cả giai cấp công nhân cũng chỉ là bình phong khi những cuộc đình công hàng loạt của công nhân vì miếng cơm manh áo thì vai trò của công đoàn dưới sự kiểm soát của những người cộng sản hầu như im hơi lặng tiếng. Sự lừa bịp đầy bá đạo mang tính bạo tàn không chỉ xảy ra trong nước mà mang tính quốc tế như những cuộc cải cách ruộng đất tại Trung Quốc được đem về áp dụng tại VN một cách đẫm máu. Những cuộc cải cách đánh tư sản bần hàn dân không khác gì tại Nga. Quả thật giới lãnh đạo CSVN sau khi nên nắm chính quyền đã không còn có sự quan tâm thật sự đến đời sống của công nhân và nông dân. Họ đã bị lợi dụng như một chiêu bài như thế nào thì nay vai trò của họ cũng chỉ có trên giấy tờ. Rãi khắp trên các cánh đồng miền Nam bát ngát, đến miền Trung, Cao Bắc Lạng rồi các Cao nguyên… bộ mặt của người nông dân lam lũ, cơ hàn trên những cánh đồng và mương rẫy với con trâu đi trước cái cày theo sau như thế nào đủ biết ngay nền nông nghiệp VN được quan tâm ra làm sao, không cần ông này bà nọ ra trước Quốc hội và nói tăng trưởng mấy phần trăm, hãy nhìn những căn nhà ổ chuột của công nhân ở các khu công nghiệp, nạn kẹt xe ô nhiễm môi trường, nước cống ngập trong thành phố, tai nạn giao thông xảy ra hằng ngày trầm trọng với con số người chết không khác gì một nước có chiến tranh… Bạo tàn không chỉ trên nòng súng với chế độ công an trị mà lan toả khắp mọi lĩnh vực như người dân không có quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, lập hội… và đau thương nhất là tiếng nói của người dân trước sự bắn giết ngư dân vô tội trên biển cả, lãnh thổ, lãnh hải bị Trung Quốc chiếm dần, diễn tập quân sự trên các quần đảo thuộc chủ quyền của VN, nhưng các các nhà lãnh đạo Cộng sản tham ô, nhu nhược không để cho người dân tự do lên tiếng, nhất là giới trẻ yếu đuối … còn đâu một Trần Quốc Tuấn bóp nát quả cam ngày nào. Những người gọi là đại biểu ngồi trơ mặt, im hơi ra đó không có được tiếng nói nào song không biết thẹn trước sự xâm lấn dần của Trung Quốc.
Trước sự sụp đổ của cộng sản Đông Âu, Liên Xô cũng không còn… một vài nước còn lại trên thế giới trong đó có VN, bọn nầy đã biến thành tư bản đỏ trong bản chất vốn man dã của mình chúng càng bạo tàn tinh vi hơn và hệ thống này nay liên kết với bọn phú hào, lại là những thứ phú hào nắm quyền không có sự biến đổi nào trong bản chất chúng ngay từ thời cổ Hy lạp với những định nghĩa của Platon về loại này khi nắm quyền - có thể thâu gồm trong mấy từ ngắn gọn: lợi nhuận tối đa cho chúng bất cần đạo đức. Thật sự, chúng nắm tay nhau miễn là có lợi nhuận.
Trong vô số những loại bạo tàn thời nay, chắc chắn rằng sẽ không có bạo tàn nào mang lại sự giải phóng đích thực cho con người, nhất là mang lại sự giải phóng về phương diện kinh tế xã hội. Bạo tàn chỉ gây cho con người niềm hy vọng hão huyền. Bởi vậy khi nắm được chính quyền, họ kịch liệt chống lại tiếng nói có lương tri trong xã hội, và quay ngược đàn áp tầng lớp mà họ họ đã từng nhân danh đế chiếm đoạt quyền lực.
Để đem lại phương thuốc chữa trị bạo tàn, những người dân Việt chân chất chỉ có liều thuốc đắn là sự kiên nhẫn và mỗi người trong ý thức về sự thanh sạch từ bên trong tâm hồn các công dân ghét bạo tàn, đó mới thật sự là sức mạnh vô biên chính chúng ta sẽ cứu đất nước mình. Mỗi thời đại, dân tộc Việt đều có anh hùng và trước sự cực kỳ bá đạo của tầng lớp cộng sản lãnh đạo hiện tại, mỗi người đều có thể khởi đầu: Tôi uống chén đắn này với dân tộc, tôi hứa sẽ thanh khiết từ chính lòng mình để dân tộc Việt vượt qua cơn thử thách với bạo tàn này và phải có tự do. Không thể tẩy rữa bạo tàn bằng bạo tàn chỉ càng thêm vấy máu, cũng không thể kêu gọi bạo tàn bằng yêu thương vì dường như chúng không còn trái tim “trái tim đeo ngoài túi áo, như chuông trước cổ ngựa thồ”. Mỗi người dân Việt cũng tự xét mình: sự bạo tàn này có phải khởi đi và tồn tại nơi chính mỗi chúng ta và nếu thế chỉ có thể được thanh tẩy từ chính cá nhân mỗi người dân Việt.
***

Chương 4
Cộng đồng dân tộc Việt và cộng đồng nhân loại.
Thế giới ngày nay qua công nghệ thông tin, con người gần gũi nhau hơn như sống dưới một mái nhà chung. Nhưng kỹ thuật mà trượt trên đường bá đạo thì nguyền rủa nhau hơn là đối thoại. Quả vậy con người tiến bộ văn minh hoàn hảo không phải từ khoa học kỹ thuật mà một cách sâu xa hơn biết tôn trọng nhân phẩm con người.
Ngay từ những ngày đầu lập quốc Tổ tiên người Việt đã dựng nên truyền thuyết Bà Âu Cơ sinh ra cái bọc với trăm cái trứng nở ra trăm người con để nói lên với hậu thế phải biết đùm bọc mới sinh tồn. Người Việt luôn biết tế Thiên tế Địa: Kính Trời, yêu người chính là chu toàn luật pháp trong nhà nước tự nhiên nguyên thủy của người Việt.
Nhân cách cá nhân và xã hội: Đặc tính của xã hội loài người là sự thăng tiến nhân cách cá nhân và sự phát triển xã hội lệ thuộc nhau. Thật vậy chính sự phụ thuộc lẫn nhau và nhờ đối thoại con người thăng hoa với mọi khả năng và trở nên viên mãn trong nhân cách chính mình: Esto Vir - thành nhân. Song bên cạnh đó do tính ích kỷ, kiêu ngạo của con người cũng là nguyên nhân biến môi trường xã hội suy đồi. Thiếu niên tại VN qua mạng internet toàn cầu đã bị tiêm nhiễm xấu nhiều hơn tiếp thu điều tốt, nên khi mới ở ngưỡng cửa cuộc đời chúng đã bị lôi kéo làm điều ác và xa lánh dần bố mẹ, ông bà, người thân… chúng không thích làm điều thiện. Quả thật với bao cái nghiện đồi bại của người lớn ở thượng tầng, trong đó có sự vong thân chìm đắm trong bá đạo – đó chính là nguyên nhân làm cho môi trường xã hội suy đồi và một khi trật tự xã hội bị đảo lộn do hậu quả của bạo tàn… tất nhiên khuynh hướng xã hội sẽ nghiêng hẳn về sự xấu như hiện nay. Kể cả các tôn giáo tại Việt Nam trước một chế độ toàn trị độc ác cũng thuần phục và cùng nắm tay nhau lê bước đến hụt hẫng trong tha hoá.
Thế giới ngày nay càng mở rộng tầm phổ quát hơn và do đó bao hàm những quyền lợi và nghĩa vụ của toàn nhân loại. Mỗi cá nhân được hưởng những lợi ích và đồng thời có bổn phận tôn trọng các giá trị của toàn thể gia đình nhân loại.
Nhân cách phổ quát: Do con người càng ý thức hơn về phẩm giá cao trọng của nhân cách, nên môi trường xã hội cần phải tạo điều kiện cho con người được hưởng tất cả những giá trị thiết yếu mà con người cần phải có để có thể thật sự sống đời sống của con người như: của ăn, của mặc, chỗ ở, quyền tự do chọn lựa cuộc sống, hôn nhân gia đình, quyền được giáo dục, lao động, bảo vệ danh dự, quyền được kính trọng nhân phẩm, quyền ngôn luận, quyền hành động theo lương tâm chính trực, quyền bảo vệ cuộc sống riêng tư, tôn trọng tâm linh. Có thể nói, một xã hội văn minh luôn nhằm bảo vệ, phát huy các nhân cách cá nhân bởi vì trật tự của cộng đồng luôn lệ thuộc vào trật tự của các nhân cách cá nhân. Không thể có một xã hội bình thường với toàn người điên. Trật tự này phải được đặt trên yếu tính tự do, công bình . Vì sự tự do, quân bình nơi mỗi cá nhân là nền tảng cho sự quân bình thật sự cho toàn xã hội. Muốn được điều này, riêng môi trường Việt Nam hiện tại phải thay đổi tận căn để nơi mỗi cá nhân mà trước hết khởi đi từ ngay các tôn giáo - những giá trị tinh thần đã bén rễ sâu trên đất nước này. Đây phải nói là bổn phận của các vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo: Hãy làm lại chính mình để xây dựng lại Giáo hội, để thay đổi nếp sống, nếp nghĩ đang lệch lạc trầm trọng của một dân tộc.
Xin đừng chờ những người dân chân chất xứ này sẽ đứng lên làm lại các cha, thầy, nếu như vậy thời đạo chưa nhập thể hay thấm nhuần trong lòng dân tộc. Thà có một thứ Đại học bên ngoài đại học vẫn hơn thứ đại học tôn giáo truyền dạy thứ chủ nghĩa Mác Lê và xem đó không phải như yếu tố phụ khi cần thiết nên phải học mà nó lại trở thành thuộc tính thiết yếu làm cây gậy dẫn đường cho tôn giáo khiến ngay từ nền tảng lý thuyết với các các loại Viện Phật học, Đại chủng viện kiểu này đã mặc cho mình chiếc áo ngụy tín, đến an tâm trở nên thuần thục và vong thân lúc nào không hay biết; thà có Linh mục chui còn hơn phải hối lộ đút lót cho Mặt trận tổ quốc năm, mười triệu để được chịu chức… Ông Sư, Ông Cha nào bây giờ cũng biết dùng chữ lách, than ôi con đường đến với Chúa với Phật không phải là lách mà vì đó là con đường công chính, con đường đến với chân tâm… Quả là các Giáo hội đã thật sự vong thân trên đất nước này trước bạo quyền.
Như vậy để có sự tôn trọng chính mình, trước hết mỗi người phải biết tôn trọng sự sống của nhau, những ai nhận làm nghề lãnh đạo hãy cùng mọi người quan tâm đến những phương tiện cần thiết hầu giúp con người sống một cách xứng đáng, đừng biến cả nước thành nhà tù “hãy cho chúng ăn thật ít và bắt chúng làm thật nhiều”, hay cho chúng ăn thoả mái thật no nhưng toàn đồ nhơ bẩn bậy bạ… Tất cả những ai đi ngược với chính sự sống như giết người, diệt chủng, phá thai, hành hạ thân xác và tâm thần con người, giam cầm vô cớ, mãi dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em… chính là thước đo làm thối nát nền văn minh nhân loại của giới lãnh đạo đương thời quốc gia nào đó.
Kính trọng tha nhân: con người văn minh là con người biết tự kiềm chế, biết tôn trọng những người không cùng cảm nghĩ với mình trong những vấn đề xã hội kể cả tôn giáo. Cho nên đối thoại chính là yếu tố trước tiên trong tình nhân ái với đồng loại vì ngay cả những người lầm lỗi vẫn còn yếu tính nhân phẩm, trên nền tảng này mỗi cá nhân đều có thể làm lại chính mình nếu biết khởi đầu.
Dân tộc Việt có truyền thống triết lý Phật giáo trong khoan dung và Ki Tô giáo: “hãy thương yêu kẻ thù nghịch mình, cứ làm ơn cho kẻ ghét mình, lại cầu nguyện cho những người bắt bớ vu oan cho ngươi nữa”. Mt.5, 43-44.
Chủ nghĩa cá nhân vị kỷ: Có những tập đoàn thống trị ngoài miệng thì hô hào “bốn phương vô sản đều là anh em”, đại lượng lắm! Song, thực tế khi nắm được chính quyền họ không còn quan tâm đến các nhu cầu xã hội, nếu có chỉ trên bình diện các chiêu bài, mọi phương tiện cho quyền lực thống trị cùng với các đặc quyền cho tập đoàn thống trị. Họ coi thường các luật lệ mang tính công ước quốc tế. Họ không ngần ngại gian lận kể cả lừa đảo trốn thuế trong khi buộc người dân phải nộp đủ thứ thuế.
Họ sống ngoài vòng pháp luật ngay chính thứ luật pháp mà họ dựng lên và xem thường thuần phong mỹ tục như Tổng thanh tra nhà nước đi ăn hối lộ, Tổng bí thư mắc chứng tâm thần mà vẫn cứ được chọn làm “vua”, các bí thư hiếp dâm, mua dâm trẻ em… đó là chưa kể sự nhặng xị giữa họ với nhau. Các thứ trưởng mang hàng triệu đô đi đánh bạc tà dâm, các lãnh tụ thanh niên thành đoàn quay cóp, mua bằng cấp. Việc mua bán văn bằng được tổ chức tại chính những cơ quan giáo dục đầu não đảng bộ cộng sản.
Do đó, ngay bây giờ để cứu dân tộc, mỗi người đều phải nhìn nhận và tôn trọng những liên đới xã hội như một trong những nghĩa vụ chính yếu của con người. Cần phải vượt qua cái tôi cá nhân thiếu văn hoá, phạm thuần phong đầy bản năng duy vật. Điều này chỉ thực hiện được khi mỗi người dân Việt trau dồi nơi chính con người mình những đức tính thanh sạch, liêm khiết, ngay thẳng từ bên trong và rồi mang những đức tính ấy gieo cấy, vun trồng ngoài xã hội. Có như vậy, dân tộc Việt mới có một sự khởi đầu kiến tạo mới.
Trách nhiệm và hợp tác: Phần lớn các lãnh tụ Á đông lên lãnh đạo theo con đường sàng lọc qua kinh nghiệm hơn là được đào tạo từ những trường chính quy mang tính chất như “trường đào tạo các Quân vương”. Cho nên trong một xã hội tương đối có trật tự để được dân bầu, những người đại diện phải được giáo dục chu đáo để có văn hoá sâu rộng hơn.
Hãy giáo dục những người trẻ thuộc bất cứ thành phần nào trong xã hội, hầu mai hậu có những người tài giỏi - những chuyên gia trong mọi lĩnh vực, nhất là có một triết lý sống về tinh thần của một tâm hồn cao thượng. Tự do của con người dường như mất hẳn đi khi hoàn cảnh con người rơi vào nghèo đói cũng như bị hạ giá khi rơi vào dục vọng khả giác. Trái lại tự do đích thực được thăng tiến khi con người sống là sống với - xem những mối liên hệ với tha nhân đó là tình liên đới đồng loại. Tổ tiên người Việt đã dựng nước không để sống riêng rẽ nhưng để tạo nên sự liên kết xã hội. Tính chất cộng đoàn này khởi đi không chỉ từ nhân cách cá nhân như các phần tử của cộng đoàn, mà những liên hệ thuộc về gia đình là nền tảng nguồn gốc phát sinh những liên hệ xã hội.
Thật vậy, khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, tất cả đều phục vụ xã hội một cách có hiệu quả trong niềm tin về một xã hội bền vững có gia đình hạnh phúc, phồn vinh.
Sinh hoạt của con người xuất phát từ con người nên cũng qui hướng về con người. Khi con người làm việc không những biến đổi thế giới tự nhiên mà còn cải thiện chính mình. Giá trị của con người ở “cái tôi đang là”, cái hữu thể đang thể hiện tính thể của nó chứ không phải “cái tôi đang tồn tại”. Vậy cá nhân cũng như tập thể không thể sống như nước chảy bèo trôi “cái tôi tha hoá” trong ý thức kiện toàn cộng đồng nhân loại.
***

Chương 5
Một số vấn đề khẩn thiết của dân tộc Việt ngày nay
Dưới ánh sáng tinh thần dân tộc cùng tri thức phổ quát của nhân loại, một số điều khẩn thiết để tránh sự bại vong của dân tộc dưới sự lãnh đạo của tập đoàn thống trị cộng sản như sau:
Hôn nhân và gia đình: Có thể nói được rằng: sự lành mạnh của con người cũng như xã hội – đó là sự liên kết chặt chẽ mọi tốt đẹp từ các tế bào xã hội là gia đình đến cộng đoàn nhân loại. Nhưng không phải ở đâu vấn đề hôn nhân cũng diễn ra tốt đẹp. Tình trạng tự do luyến ái, ly dị, đa thê, phá thai… cùng những hình thức lệch lạc khác. Do từ lòng ích kỷ tham khoái lạc mà con người bị biến thành vật chơi giải trí… ngoài ra với môi trường kinh tế, chính trị, tâm lý xã hội cũng đã gây cho các gia đình không biết bao nhiêu là xáo trộn trầm trọng, có cả sự gia tăng dân số trước sự sinh sản vô trách nhiệm của con người. Từ những biến đổi sâu sắc của xã hội hiện đại, nhất là theo chiều nghịch thoái hoá trầm trọng về đạo đức dưới chế độ cộng sản, đã gây nên không biết bao khó khăn, đau khổ, khóc than cho vô số gia đình Việt Nam.
Gia đình: nơi thể hiện cuộc sống chung thân mật gọi là tình yêu vợ chồng, với những định luật riêng có sự ưng thuận tự nguyện giữa hai cá nhân. Yếu tố tự hiến và đón nhận nhau, nhất là theo thời gian, chính hành vi khoan dung, biết nhẫn nại hy sinh cho nhau mà hôn nhân gia đình bền vững. Vì lợi ích cả hai sinh con cái, tạo của cải xã hội, xây dựng sự liên kết giữa một đối một và một đối nhiều trong mối dây liên kết toàn nhân loại. Cả hai là “một xương thịt” trong sự trung tín. Con cái là những thành viên trong gia đình với lòng biết ơn sự sinh thành, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, tôn trọng cha mẹ trong tuổi già. Song điều này dường như mất dần đi trong chế độ cộng sản, thậm chí khi cha mẹ về hưu già yếu, chúng bán luôn cả cái “nhà tình nghĩa” của cha mẹ chúng. Gia đình Việt Nam hiện tại chỉ còn là một thứ hình thức dễ tan biến mau chóng vì những thứ nhục dục thể xác của những con người duy vật hoang dã nay sa đọa trong trụy lạc, chính nó đang gây ra không biết bao nhiêu thảm hoạ cho cộng đồng dân Việt. Phim sex tràn ngập học đường, các em học sinh chỉ mới mười ba mười bốn trong cặp chúng từ điện thoại di động đến các các bộ nhớ được lưu trữ toàn loại phim đồi truỵ và không ai biết chúng thực hành đến đâu…
Hôn nhân không chỉ để di truyền giống nòi, tình yêu hỗ tương giữa vợ chồng phải được nẩy nở chính đáng theo phẩm giá đích thực của con người. Hạnh phúc của con người có lẽ kỳ diệu hơn những gì xảy ra ở các loài sinh vật thấp hơn.
Khẩn thiết phải xác định: gia đình là một trường học phát triển nhân tính. Ngoài việc chu toàn bảo vệ, phát triển sự sống, việc giáo dục chăm sóc gần gũi con cái phải là một thuộc tính thiết yếu. Cho nên, gia đình trở thành nền tảng cho xã hội, giúp nhau hài hoà những quyền lợi cá nhân và những đòi hỏi của cuộc sống xã hội.
Xã hội phải bảo đảm cho cha mẹ quyền sinh sản và giáo dục con cái như một sứ mệnh thiêng liêng trong khung cảnh gia đình. Luật pháp phải được xây dựng chặt chẽ để bảo vệ gia đình. Các khoa sinh học, y học, xã hội, tâm lý, tâm thần học…có thể giúp ích rất nhiều để xây dựng hôn nhân gia đình hầu mang lại sự quân bình từ ngay các tế bào xã hội đến hài hoà, trật tự, văn minh trong toàn xã hội.
Phát triển văn hoá: nhân cách cá nhân chỉ đạt tới nhân tính thật sự nhờ văn hoá. Văn hoá là tất cả những gì con người thụ bẫm được để vun trồng và phát triển thân xác và tinh thần làm cho đời sống gia đình và xã hội chính trị ngày càng nhân bản hơn.
Ngày nay chúng ta dùng từ đa văn hoá nói lên văn hoá nhân loại thiết yếu mang tính lịch sử và xã hội. Vốn “nhân loại khôn hơn mỗi người”: nhiều thuần phong mỹ tục, nhiều định chế pháp lý, nhiều phát triển khoa học, mỹ thuật… đã tạo nên nhiều cách chung sống, nhiều kiểu hoà hợp các giá trị cuộc sống. Tất cả các nền văn hoà đều đáng kính trọng, đều là những giá trị làm thăng hoa nền văn minh nhân loại.
Thế giới đang biến đổi sâu sắc khiến con người không chỉ đề cập đến một kỷ nguyên mới, nhưng là kỷ nguyên của các kỷ nguyên mới nữa sẽ ra sao đây khi cùng lúc với nhiều tiến bộ nhảy vọt trong nghiên cứu khoa học. Điều đó bắt buộc nhân loại phải mở ra những suy tư mới về nhân văn, đạo đức: khi nền nông nghiệp không cần đất đai, khi quan hệ thân tộc, hôn nhân, vợ chồng con cái trong một nền nhân bản mới khác hẳn với hệ thống cũ khi con người có thể định cư ngoài vũ trụ và việc nhân bản xem như đã thành công.
            Bởi vậy, nền văn hoá hiện đại có đặt trên nền tảng của khoa học cho dù được mệnh danh là chính xác, nền văn hoá này vừa thật nhạy cảm và mong manh. Con người luôn truy tìm và xây dựng những nền văn hoá mới, bên sau văn hoá của văn hoá là những giá trị ngày càng mang tính phổ quát nhiều hơn. Nghĩa là con người tiến gần hơn đến một nền văn hoá phổ quát bên cạnh tôn trọng các nền văn hoá truyền thống cổ xưa, trong một thế giới đa dân tộc, đa ngôn ngữ, đa văn hoá.
Con người, chủ thể văn hoá: càng ngày con người càng ý thức chính mình tạo nên văn hoá của cộng đoàn mình. Do đó, ý thức tự chủ cũng như gánh vác trách nhiệm càng tăng. Đó là điều quan trọng để nhân loại trưởng thành trên mọi phương diện nhằm kiến tạo một thế giới mới tốt đẹp hơn trong tự do, công bằng. Quả là dù có như thế nào với những loại nhà nước toàn trị bá đạo, quân phiệt, phú hào… song nhân loại đang tiến đến một nền nhân bản mới: con người được định nghĩa trước hết tuỳ theo trách nhiệm của mình đối với tha nhân cũng như với các chân lý cổ xưa.
Tuy nhiên con nhân sư như đang đứng trước mặt nhân loại với những câu truy vấn muôn vàn mâu thuẩn trước mắt phải giải quyết. Đó là phải làm sao trước sự tiến bộ con người có sự đối thoại đích thực giữa các dân tộc, giữa các quốc gia, giữa các công dân trong một nước mà không phá hoại làm tổn thương bản sắc riêng của mỗi dân tộc. Đó là yếu tố cần thiết cho việc dung hoà mọi nền văn hoá trên nền tảng của sự phát triển to lớn của khoa học kỹ thuật, nhất là từ khoa vật lý thiên thể và tương lai học: sẽ không còn những liên hệ trực tiếp giữa nguyên nhân và kết quả.
Hiện tại Việt Nam đang đi trên con đường trượt dốc với chủ thuyết nhân danh giải phóng con người nhưng càng nhân danh thay vì giải phóng con người đã đưa con người người sa vào hết ngụy tín này đến vong thân khác khiến cả một dân tộc đảo điên như người nông dân theo thống kê mới nhất phải chịu ít nhất ba trăm lẻ một thứ lệ phí mỗi năm…Như vậy văn hoá phải nhằm đạt đến sự hoàn hảo toàn diện cho nhân cách cá nhân vì sự lợi ích của cộng đồng và toàn xã hội. Hà tất không thể đó là thứ văn hoá làm thân trâu ngựa chạy trong bịt mắt dưới sự cai trị của tập đoàn thống trị mê mờ với thứ học thuyết lỗi thời nào đó. Nên con người cần có tự do để phát triển, sáng tạo, những quyền cơ bản tối thiểu của con người được hưởng như Tuyên ngôn Quốc Tế Nhân quyền .
Như vậy con người là chủ thể văn hoá và chính văn hoá quay lại khai tuệ cho con người tự do đi tìm chân lý cũng như bày tỏ, phổ biến ý kiến cùng tự do hành động theo sở thích của mình, miễn là tôn trọng người khác phù hợp với trật tự của cộng đồng.
Vậy xây dựng một nền văn hoá nhân bản đích thực chính là làm sao cho nhân cách mỗi cá nhân phát triển quân bình giữa cá nhân và xã hội trong một thế giới với sự liên kết thuộc về gia đình nhân loại. Để đạt đến cái chân thiện mỹ và có được sự phán đoán mang tính phổ quát, mỗi người dân Việt phải tìm hiểu khoa học một cách khách quan hơn, nghiêm túc với các chân lý cổ xưa của chính mình và của đồng loại. Có như vậy chúng ta mới khử trừ được thứ chủ nghĩa lỗi thời đang là tai ương cho dân tộc mình.
Người Việt có biểu trưng “mẹ tròn con vuông” để nói lên sự thiết yếu viên mãn về nhân cách cùng sự hiểu biết về thế giới tự nhiên. Qua sự tích “bánh dày bánh chưng”, hình vuông nói lên kiến thức mà ngày nay con người càng đi vào chuyên môn hoá, một thế giới với các chuyên gia và không còn những người cái gì cũng biết nhưng không biết thật. Hình tròn vẫn là gợi ý nói lên sự hướng tới nhân cách toàn diện nơi mỗi cá nhân.


Chương 6
Những vấn đề kinh tế xã hội của người Việt
trong bối cảnh kinh tế toàn cầu.
Ngày nay hơn bao giờ hết con người chế ngự thiên nhiên, sự liên đới giữa các công dân trên toàn hành tinh cũng như giữa các quốc gia ngày càng gần gũi hơn. Song không thiếu những lý do gây quan ngại như chủ nghĩa duy kinh tế, sự nghèo đói, chênh lệch giàu nghèo trở nên trầm trọng, những kẻ lạm dụng chức quyền tham ô tước đoạt tài sản của người dân. Đa số đảng viên cộng sản sống trên và ngoài vòng pháp luật: lấy của công biến thành của tư, tha hồ chiếm dụng đất đai ruộng vườn của người dân thấp cổ bé miệng. Chúng biến thành bè lũ tư bản đỏ đáng sợ trong khi đa số nông dân phải chạy ra thành phố sống làm việc, thậm chí có khi đến bất xứng với phẩm giá con người hay con cái họ muốn chạy thoát khỏi cuộc sống nghèo khổ phải “cởi trắng thân” ra cho bọn Đài Loan, Hàn quốc… sờ nén xem xét mà tuyển lựa về làm người vợ hầu cho chúng.
Sự chênh lệch giàu nghèo giữa các quốc gia cũng ngày càng trở nên trầm trọng và có thể đe dọa cả nền hòa bình thế giới. Hình ảnh người lính Mỹ bị kéo lê đi trên đường phố khi tình nguyện đến cứu đói dân nước Sômali, mặc dù làm nghĩa vụ nhân đạo những vẫn dưới con mắt nhìn trong cách biệt giữa giàu nghèo. Nó khiến nhân loại phải suy nghĩ và ý thức mãnh liệt về sự chênh lệch đó, cho nên có thể nói được rằng khoa học dù có tiến đến đâu cũng không đủ để san bằng sự cách biệt nếu như con người vẫn không nhận ra “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Cái tâm ấy chính là lương tri của nhân loại, là phương cách cho chứ không phải của cho, là những nguyên tắc về công bình, nhân ái – chính nó là sự quân bình giữa cá nhân và xã hội.
Hiện tại con người qua các phương tiện kỹ thuật nhằm giải quyết những nhu cầu ngày càng nhiều của nhân loại, song chúng đang sa đọa quá mức khi đi tìm sự thoả mãn các nhu cầu hằng ngày, con người chìm sâu trong những phương tiện hiện đại. Tập đoàn thống trị CSVN hầu như bỏ ngõ các phim sex và bạo lực, họ không kiểm duyệt những thứ này, đó cũng là món quà đảng CSVN dành cho giới trẻ VN. Trái lại họ kiểm soát rất chặt chẽ với những “bức tường lửa”, mọi thông tin bất lợi cho sự tồn tại của họ bất kể từ đâu đến, tốt hay xấu đều là điều cấm kỵ.
Người Lạc Việt theo truyền thuyết ngay tự khởi đầu đã biết làm lúa, tự cung, tự cấp nghĩa là có sự kiểm soát của con người trong cái ăn, cái mặc. Thật vậy, chủ nghĩa trọng nông - nhất sĩ nhì nông, qua câu nói dân gian nói lên trong một thời gian dài đến khi giao tiếp với người Phương Tây và mãi đến giờ đây dưới sự cai trị của cộng sản, người nông dân mới bỏ ruộng vườn mà chạy tháo thân ra thành phố.
Quả là một hệ thống khủng bố mang tính toàn cầu dù nay nó đã sụp đổ, nhưng cái nọc của con rắn độc vẫn còn ở đâu đây trên hành tinh trong đó có Việt Nam. Và người dân Việt sẽ phải còn hứng chịu không biết bao lâu những khổ đau, nếu không cùng nhận ra như khởi thủy Tổ tiên dân tộc này đã xây dựng: phát triển kinh tế trong tự do, tự chủ của con người. Như vậy có thể nói tiền đề của tự do là quyền tư hữu như một quyền cơ bản của con người.
Tư hữu chính là động lực cho sự phát triển vì có lợi ích thiết thực, con người mới xã thân tạo ra của cải và tài sản đó được xã hội xác nhận do tôi làm ra và của chính tôi, tôi không bị tước đoạt nghĩa là không bị vong thân qua cần lao..
Và trong một nền kinh tế mang tính hỗ tương toàn cầu hóa với những phương tiện kỹ thuật tối tân được nhanh chóng chuyển từ nơi này sang nơi khác, người Việt có nhiều cơ hội chấm dứt được những chênh lệch kinh tế lớn lao giữa giàu và nghèo: hiện tại Việt Nam có người dân chỉ có cơm ăn vào ngày Tết còn suốt năm ăn khoai sắn… Trong khi hàng ngũ lãnh đạo đảng cộng sản dùng cả triệu đô từ ngân sách hay vốn vay của nước ngoài để đánh bạc, hoặc như ông Thủ tướng mang chiếc đồng hồ mạ vàng đính kim cương đến tiền tỷ, cho đến khi bị một viên phó bí thư tỉnh ủy kia chơm mất mọi sự mới vỡ lẽ… dân tộc này có ông vua trong các vua đã quên mất phép nước khi nhận quà của ai đó quá mức qui định mà không khai báo. Quả là không chỉ mình ông đã quên mà cả tập đoàn các vua trên đất nước này đã quên mất mình đang hiện là ai? Đang ở đâu? Đang làm gì? Và nhất là đang nói gì? Có là nói thật với lòng mình hay làm cách mạng, chính trị phải nói láo? Tất cả đều như quên mất thời gian: một đời người ngắn ngủi lắm và tôi để lại sự nguyền rủa hay lòng thương yêu kính trọng đến những mai sau?
Một chính quyền nhân bản - lấy dân làm gốc, phải là một chính quyền xem con người như một nhân vị, chứ không phải là thứ công cụ để nắm quyền lực. Chính quyền phải giúp đỡ mọi người có nơi nương náu, nông dân có đất để canh tác, mọi người có công ăn việc làm xứng đáng với phẩm cách làm người, kể cả những người bệnh tật, tuổi già sức yếu. Tất cả đều có cơ hội sống cho ra con người trong một nhà nước mang lại sự quân bình cho cá nhân cả trên bình diện lý trí, tình cảm và những dục vọng khả giác.
Công nghệ phát triển phục vụ con người, nhưng công nhân tại Việt Nam là nạn nhân của các nhà máy với giá thù lao rẻ mạt như ở các nước nghèo và bất công lên đến phi nhân khi công đoàn thuộc tập đoàn thống trị không hề có tiếng nói bênh vực công nhân. Mỗi người qua sức cần lao của mình cần được hưởng sự nghỉ ngơi, chăm sóc y tế, có thời gian nhàn rỗi để hạnh phúc gia đình, văn hoá, xã hội và tôn giáo. Cho nên phải sớm dẹp đi thứ công đoàn bù nhìn, người nông dân, công nhân chính họ phải có quyền lập hội, được tự do, tự chủ quyết định về người đại diện qua lá phiếu, kể cả việc tham gia cổ phần để góp phần vào việc phát triển toàn bộ nền kinh tế cũng như mưu cầu lợi ích chung.
Đình công: những cuộc đấu tranh bất bạo động qua đình công là phương tiện cần thiết để bênh vực quyền lợi của công nhân hầu có được những cuộc đối thoại bình đẳng. Nó chính là con đường để giải quyết tốt đẹp những bất hoà giữa chủ và người làm thuê, giữa kẻ thống trị và người bị trị.
Người Việt theo truyền thống có tập tục: “lá lành đùm lá rách”, “thấy ai đói rách thì thương, rách thời cho mặc, đói thời cho ăn”. Trải qua nhiều ngàn năm xác định quyền của cá nhân có quyền tư hữu cho dù dưới các định chế xã hội có khác nhau và chính nhờ vậy mà của cải không chỉ sinh ích lợi cho cá nhân mà cả cộng đồng trong sự giữ nước và phát triển.
Xác định quyền tư hữu, quyền làm chủ của cải do chính mình làm ra, cũng là xác định quyền tự do cho mỗi người và gia đình, tạo cơ hội cho các công dân làm tròn phận sự của mình trong xã hội trong đó có con người thật sự là một chủ thể kinh tế - homo economia.
Chương 7
Đoàn thể chính trị trong cộng đồng dân Việt
Nhờ ý thức mãnh liệt hơn về sự tôn trọng các quyền cơ bản của con người, ngày nay hầu hết các nước trên thế giới, người ta cố gắng thiết lập một thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng để bảo vệ quyền lợi cá nhân trong cộng đồng như quyền tự do hội họp, tự do lập hội, tự do phát biểu ý kiến hoặc tự do tôn giáo nơi chốn riêng tư cũng như công khai. Tất cả đều nhắm đến bảo vệ người dân hay đoàn thể có quyền tham gia tích cực vào đời sống xã hội cũng như vào chính guồng máy quốc gia.
Sự khao khát sâu xa của con người muốn góp phần xây dựng xã hội sẽ tiến tới mức cao hơn với trách nhiệm đó là việc tổ chức các đoàn thể chính trị. Và con người thật sự văn minh khi biết tôn trọng chính kiến hay tôn giáo khác với mình. Đồng thời có sự cộng hưởng hài hoà giữa các công dân chứ không hà tất chỉ dành cho một nhóm ưu đãi.
Cộng đồng nhân loại lên án một cách mạnh mẽ thể chế chính trị ở vài nước ngăn cản quyền tự do công dân, thay vì cầm cây gậy dẫn dân đi qua Biển Đỏ thì triệt hạ sát hạch tàn nhẫn với chính dân mình, thay vì mưu cầu công ích lại thâu tóm phục vụ cho một tập đoàn thống trị.
Để có được các đoàn thể thật sự nhân bản, chính nơi bản thân các tổ chức phải gây nên nơi thâm sâu ở mỗi công dân sự công bằng, tinh thần phục vụ công ích. Như vậy bản chất của các đoàn thể không phải chực nắm quyền nhưng là động lực cho sự phát triển và giám sát thật sự việc thực thi của các cơ quan công quyền.
Cá nhân, gia đình và cả đoàn thể đều nhận thức rằng “một con én không thể làm nên mùa xuân” nên chính sự liên đới rộng rãi hơn thành những đoàn thể rộng lớn vì công ích chung của dân tộc trong cộng đồng nhân loại: như tại Việt Nam, những ai có dòng máu Việt không thể ngồi yên mà nhìn cái tập đoàn nhơ nhớp bẩn thỉu bất tài cứ ngồi đó lãnh đạo mãi. Công ích chung đó là đất nước này phải thay đổi trong hoà bình qua cuộc trưng cầu dân ý để người dân chọn lựa chế độ tự do hay cộng sản, trong tự do có sự tồn tại của cộng sản, tất nhiên trong cộng sản thì độc đảng; và sau đó tiến hành bầu cử Quốc hội với đoàn thể nào đã vì công ích thật sự sẽ được tín nhiệm qua lá phiếu của mỗi công dân. Nếu người dân chọn chế độ tự do, đảng CSVN cũng vẫn còn đó và cho dù thật sự các công dân không đồng ý với đường lối lãnh đạo của các “đồng chí” thì các bạn hãy đợi đấy trong nhiệm kỳ sau với sự nỗ lực hết mình vì dân vì nước của các bạn, người dân sẽ chọn lại trong nhiệm kỳ mới, còn ông chính trị gia nào nay chỉ trích các “đồng chí” thật nhiều, song khi lên nắm quyền không làm được tích sự gì sẽ phải ra đi qua sự tín nhiệm của người dân. Sẽ không có chuyện bắt các “đồng chí” vào các các trại tập trung, cũng sẽ không có chuyện tịch thu nhà cửa ruộng vườn một cách bừa bãi như các “đồng chí” đã làm, vì vốn dân tộc này rất bao dung tha thứ. Tất cả đều diễn ra trong trật tự, cũng không có anh công an, bộ đội nào bị đuổi về nhà vì các bạn đều là người dân Việt và có quyền phục vụ trên đất nước này. Chỉ có mục đích của cộng đoàn cũng như đoàn thể từ nay thay đổi: đó là một nền trị chính không nhằm triệt hạ con người, nhưng cùng nhau chữa trị, cứu vớt con người.
Quả là thật khó dung hoà được quyền bính với tự do, những nhu cầu của cá nhân với sự liên đới trong toàn xã hội, quân bình được các dị biệt đòi hỏi các nhà hoạt động xã hội, các đoàn thể phải thực hiện những sứ mệnh thật toàn diện và sẽ thật phong phú cho những vai trò đến thành công trong sự hài hoà giữa cá nhân và xã hội. Khi quan điểm của các đoàn thể nhiều khi hoàn toàn khác biệt nhau, đối chọi nhau. Những đảng phái chính trị có bổn phận cổ võ những gì họ xét thấy cần cho công ích, chứ không bao giờ đặt quyền lợi riêng của cá nhân hoặc nhóm mình lên trên công ích.
Việc giáo dục rất cần thiết cho giới trẻ, những ai có khả năng lãnh đạo trong mọi ngành nghề nhất là có khả năng làm chính trị - đây là một nghệ thuật rất khó khăn và cao cả. Họ cần phải được chuẩn bị cho chính bản thân một cách nhiệt tình không màng danh lợi, với sự thanh sạch từ bên trong tâm hồn phục vụ một cách khôn ngoan, thông minh cùng tri thức chống bất công, độc tài toàn trị, sự cố chấp của cá nhân lãnh tụ hay đảng phái nào đó.
Hãy dũng cảm lên các bạn trẻ có nguồn gốc Việt, dù chúng ta sinh ra trong môi trường cộng sản hay tự do, chúng ta đều có chung đại gia đình dân tộc, hãy đem lòng chân thành và chính trực, cả tình thương và lòng dũng cảm để mang lại lợi ích cho đất Việt chúng mình cùng cộng đồng nhân loại, cho dù chúng ta có hoạt động chính trị hay không mỗi người khi sinh đều là một hữu thể chính trị - homo politicain.
Hãy dấn thân cùng mời gọi
sự dũng cảm cao cả hơn
với những người có thể hành động,
các bạn sẽ có vai trò lịch sử
khi biến chuyển cả dân tộc thoát bại vong
trong hoà bình.
Khởi đi từ con người
và tất cả vì con người là hữu thể khôn ngoan
Homo sapiens
***

Chương 8
Xuống đường thể hiện phong cách dấn thân!
Cùng các bạn sinh viên!
Dân chủ là thuộc về nhân dân!
Giới trẻ không thích bất cứ chế độ bạo tàn!
Nhân dân muốn thay đổi!
Dân chủ là xuống đường!
Xuống đường thể hiện phong cách dấn thân!
Khát vọng dân chủ của các công dân chính là xác lập các quyền cơ bản của con người được tôn trọng qua xã hội dân sự về tính độc lập – tự do quyết định không làm phương hại đến người khác, nếu không nó chỉ là thứ dân chủ giả hiệu, con người bắt đầu có tự do khi tôi cầm một lá cờ, một bảng hiệu để phát biểu: Tôi có nhu cầu…Tôi muốn….Đó là cách thức thể hiện tự do của mình đồng thời thể chế dân chủ đích thực khởi đầu.
Khát vọng thường khiến con người hành động vượt quá khả năng hiểu biết của mình, dân chủ vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính giáo dục. Con người sinh ra theo Rousseau "đã có tự do" bẫm sinh và trong sự tiến hóa của đồng loại con người thụ bẫm tri thức để từ cái tính hoang dã trong mỗi cá nhân ngày càng ‘tự do đến tự chủ’ – theo định nghĩa văn minh là biết kiềm chế tự chủ.(1)
Như vậy sự phát triển của con người không trái với quy luật tự nhiên theo nghĩa tích cực về sự thụ bẫm các chân lý cổ xưa như một sự kiện toàn ngày càng giúp con người đến viên mãn toàn diện, thật vậy càng học hỏi con người càng nhận ra sự giới hạn khả năng nhận thức của mình. Kant đã đặt lên vấn đề  ‘Tôi có thể hiểu biết đến đâu? Sự giới hạn khả năng nhận thức của con người qua tác phẩm Phê bình lý trí thuần túy. Con người đã liều mạng trong hành động vì tưởng rằng mình có quyền năng vô hạn, do đó mà đánh mất tự chủ đến vong thân. Con người không có tự chủ thì dù có cảm nghiệm rằng đang tự do, vẫn không có tự do đích thực trong thực tế. (2)
Tự do bẫm sinh qua ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ, con người không còn hành động theo cảm năng nhưng dưới sự soi sáng của lý trí. Sự thôi thúc bên trong các cá nhân để tồn tại và phát triển tạo nên động lực phát triển như cửa ngỏ con người khám phá tự do hầu chu toàn bổn phận đối với chính mình và cộng đồng, đó là sự đấu tranh của con người văn minh – tự chủ. Nó sẽ là viên gạch đầu tiên xây dựng nên nền dân chủ - con người tiến đến việc điều hành cuộc sống chính mình và cộng đồng qua sự hình thành những tổ chức tự nguyện của xã hội dân sự.
Như vậy câu hỏi được đặt ra, các quốc gia chậm tiến hay các nước văn minh cần dân chủ hơn? Rõ ràng có thể khẳng định các nước chậm phát triển cần xây dựng một nền dân chủ hơn vì hơn ai hết chung tay vỗ nên kêu ‘nhân loại khôn hơn mỗi người’, như vậy dân chủ không chỉ tạo sự thăng hoa tinh thần nhưng còn là một nhu cầu thiết yếu cho sự phát triển. Chỉ có tự do của các công dân mới có thể giúp cá nhân phát triển toàn diện: con người thăng hoa, có năng lực, hứng thú đến sáng tạo.(3)
Như vậy xây dựng dân chủ chính là phương thức quan trọng nhất để đưa các dân tộc đến phát triển!
Nhưng trải qua lịch sử muốn có được dân chủ không phải là điều đơn giản, hầu hết chỉ là những sự lừa bịp qua sự nhân danh như nêu trong hiến pháp vài câu dân chủ, thậm chí khẩu hiệu giăng đầy đường nhưng thực tế thường hoàn toàn trái ngược. Nên muốn có dân chủ thật sự phải qua một cuộc cách mạng giáo dục nhân quyền sâu rộng đối với mọi quốc gia, đặc biệt là những quốc gia chậm phát triển.
Quan niệm về dân chủ cũng như hạnh phúc cùng khoái lạc đều tùy theo nhận định của các trường phái khác nhau, nhưng dân chủ mang tính phổ quát qua những quyền cơ bản được công nhận trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Thật vậy ngay từ những ngày đầu tiên của Cách Mạng Pháp với những tiêu chuẩn về quyền con người đã được nêu lên và ngày càng hoàn thiện theo nhu cầu thiết yếu của con người.
Tất yếu dân chủ không thể là một sự ngã lòng theo một khuynh hướng này nọ cho phù hợp với sự tuyên truyền của một đảng phái chính trị, tất cả những sự pha trộn nào đó nhằm phục vụ cho quyền lợi bè nhóm đảng phái đều phản dân chủ. Con người được xem như đối tượng quan trọng nhất cùng mục tiêu của việc xây dựng một nền dân chủ phổ quát chứ không vì các chiêu bài dân chủ mỵ dân.
Ngày nay có thể nói được rằng giáo dục nhân quyền chính là công việc vô cùng thiết yếu để có thể tiến tới một quốc gia phát triển trên nền tảng những giá trị đạo đức phổ quát đến một thế giới hình thành trên phương cách dân chủ phổ quát.
Đại Học Nhân Quyền Việt Nam chính là cái nôi phổ biến lý thuyết và rèn luyện phương cách thực hiện nền dân chủ phổ quát, đây là công việc trường kỳ của người dân Việt, không chỉ với chế độ bạo tàn hôm nay và còn mãi về sau vì con người vẫn luôn đầy những dục vọng khả giác và trên nền tảng phổ biến các quyền cơ bản của con người hầu cùng nhận ra nhau trong bộ mặt con người qua xã hội dân sự chỉ có được trong thực thi dân chủ phổ quát.
Như vậy không một quốc gia nào có thể từ chối hay trì hoãn việc thực hiện thể chế dân chủ phổ quát với bất cứ biện minh nào, tất cả mọi lý do chỉ là thứ ngụy biện để duy trì quyền lợi bè nhóm mà vốn chế độ bạo tàn nào cũng xem ‘trí thức không bằng cục phân’ và nhân dân như cỏ rác! (4)
Dân chủ là dấn thân đòi hỏi cho bằng được các quyền cơ bản phổ quát khi sinh ra làm người, ngay cả mang lại bộ mặt thật cho các bạo chúa trở lại làm người!
Tự do vừa là quyền vừa là động lực, nhưng để tự do hành thiện theo bẫm sinh ‘Nhân chi sơ tính bản thiện’ trong một vườn địa đàng nhiều trái cấm và đầy sự cám dỗ tội lỗi, vai trò của Nhà nước Tự nhiên cũng như Nhà nước có tổ chức phải cùng các tổ chức xã hội dân sự giáo dục năng lực làm chủ của người dân. Tất cả các nhà lãnh đạo quốc gia, những lãnh tụ các tôn giáo cũng là các công dân và cần được giáo dục nhiều hơn hầu tránh xảy ra những công dân bất bình thường trong xã hội lên ngôi vua trong số các vua! (5) (6)
Giáo dục dân chủ trong dân chính là giáo dục mỗi cá nhân nhận thức khả năng hiểu biết của tôi đến đâu? Tôi có thể làm gì? Và từ đó tôi có quyền hy vọng những gì? Hay hậu quả sẽ toàn thất vọng vì tôi không có hiểu biết thật sự gì hết nhưng ‘chó ngáp phải ruồi’ được ngồi vào những vị thế cao ngất trong xã hội rồi đưa đến những nghị quyết, quyết định chết người?!
Giáo dục nhân quyền chính là giúp cá nhân hiểu biết các quyền con người để sống xứng đáng với các quyền ấy và tạo ra giá trị nhân phẩm cho chính mình đồng thời đóng góp các giá trị ấy cùng cộng đồng xã hội. Con người vào thời nguyên thủy với Nhà nước tự nhiên vẫn sống tốt đẹp – không trường học, không nhà tù, không có những vòng kẽm gai bao quanh công sở, không có công an chìm nổi…Và con người sống hạnh phúc cho đến khi hình thành Nhà nước tổ chức, con người vừa được thăng hoa qua tổ chức văn minh của nhân loại nhưng đồng thời lại trở thành nạn nhân của cơ cấu tổ chức, theo dòng lịch sử hầu hết các tổ chức nhà nước trở thành thứ thống trị của bè nhóm đảng phái qua danh từ thời thượng maphia nhiều hơn!
Khát vọng dân chủ trở thành bức thiết vào mỗi thời đại vì con người không chỉ có có nhu cầu được sinh tồn mà còn được hưởng hạnh phúc. Nhân quyền không còn là tri thức hàn lâm hay phổ cập dưới dạng kiến thức phổ thông, nhưng từ đây trở thành khát vọng chân chính của mọi người không chỉ trên bình diện cá nhân với nhân vị tự do nhưng trên bình diện quốc gia tạo được Nhân Cách Quốc Gia cho Dân tộc  ấy!
Đối thoại và tôn trọng lẫn nhau như thước đo về sự phát triển dân chủ, nghĩa là từ sự độc quyền toàn trị, nhà nước trả lại thẩm quyền cho người dân quyền làm người, trong đó có quyền tự do ngôn luận. Dân quyền và nhân quyền được tôn trọng trở thành mối dây tương quan giữa Nhà nước pháp trị và các tổ chức thuộc xã hội dân sự. Quyền con người cũng không dừng lại ở đây qua việc thực thi một số quyền thuộc lãnh vực chính trị đơn giản. Nhân quyền chính là nâng phẩm giá con người lên trong tương quan hạnh phúc với tha nhân. Do đó xã hội ngày càng phát triển đồng thời các quyền tự do dân chủ cần phải được cập nhật và phổ biến hàng ngày để con người có thể sống hạnh phúc hơn.
Con người tự do là con người hành động theo lẽ phải, theo tiếng nói lương tâm, chi phối bởi những ‘những luật tự thân’, ‘Văn hóa chính là những gì còn lại sau khi quên tất cả’ – Văn hóa điều khiển hành vi con người. Một hệ thống chính trị lý tưởng, đó là hệ thống pháp luật nhằm bảo vệ và cổ xúy các công dân ý thức đến quyền và trách nhiệm của các công dân. Vai trò của nhà nước chỉ là công việc điều hành xã hội về mặt hành chánh trong yếu tính điều tiết sinh hoạt quốc dân hầu mang lại sự quân bình toàn xã hội.
Nhà nước không phải là tổ chức công cụ của một đảng phái độc quyền hướng dẫn chính trị, nhất là phục vụ cho những mục tiêu chính trị quyền lợi tạm thời! Không ai chống lại những nhà lãnh đạo tài ba cầm trên tay cây gậy dẫn đường, nhưng mọi người sẽ phản kháng lại sự độc quyền chính trị và cho rằng cây gậy kia là cây trượng tốt nhất!
Không ai có kinh nghiệm về tương lai, nhưng qua những bài học lịch sử con người có thể đặt nền để kỳ vọng về tương lai, chính khoa tương lai học như một phương pháp hướng dẫn chính trị trong khát vọng dân chủ của con người trên bình diện tư tưởng và ngoài xã hội thể hiện qua những cuộc biểu tình như một thái độ dấn thân có ý thức của con người hướng về tương lai một cách tích cực.
Một xã hội tôn trọng quyền con người chính là tăng cường bảo vệ sự bày tỏ ý kiến của các công dân trong trật tự, những cuộc xuống đường chính là thái độ tích cực của các công dân muốn cộng đồng ngày càng phát triển tốt hơn. Đây chính là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển khi tất cả chúng ta đều muốn thay đổi vì lý do đơn giản không ai trong chúng ta còn thích các chế độ độc tài trong đó có Cộng sản!
Hãy dấn thân hỡi các bạn sinh viên!
Dấn thân vì Công lý và hòa bình là xuống đường!
Viện Trưởng
Đại học Nhân Quyền Việt Nam
Nguyễn Quang.


o            Jean-Jacques Rousseau, sinh: 28 tháng 6, 1712 (Geneva, Thụy Sĩ). Mất: 2 tháng 7, 1778 (Ermenonville, Pháp)
    •  KANT (1724-1804).Critique of Pure Reason (Phê bình lí trí thuần túy, 1781).
    • ‘Nhân loại khôn hơn mỗi người’. Trích từ tác phẩm The Lessons of History, Bài Học Lịch Sử của Ông Bà Will Durant.
    • Tư tưởng của Mao Trạch Đông.
    • Theo Mạnh Tử thì “Nhân chi sơ, tính bổn thiện”.
    • Vườn Địa Đàng, câu chuyện Kinh Thánh Cựu Ước.

***